Giới thiệu Trung tâm

KOREAN CULTURAL CENTER

  • Giới thiệu Trung tâm
  1.     문화체육관광부는 기존에 운영해오던 온라인 세종학당 한국어 학습 사이트인 누리-세종학당 (www.sejonghakdang.org)에서 제공하는 기존 “누리집” 서비스를 다국어 서비스 확대 개편하여 지난 2일 개통했다. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc vừa sửa đổi, mở rộng dịch vụ đa ngôn ngữ của dịch vụ “Ngôi nhà thế giới” – dịch vụ cơ bản được cung cấp từ website học tiếng Hàn trực tuyến của Trung tâm Sejong-nuri (www.sejonghakdang.org) đã được đưa vào sử dụng trong thời gian qua và ra mắt dịch vụ mới này vào ngày 2/4 vừa qua. 이번에 개통하는 누리집에는 다국어 서비스도 풍성하게 확대, 제공될 뿐 아니라 생생한 한국어 교육 자료가 종류별로 일목요연하게 정리되어 있어, 누리집에 들르는 세계 곳곳의 한국어 학습자와 교원들은 필요한 정보를 손쉽게 찾아볼 수 있다. Trong lần ra mắt dịch vụ mới này, “Ngôi nhà thế giới” không chỉ cung cấp, mở rộng dịch vu đa ngôn ngữ mà các tài liệu học tiếng Hàn mới nhất cũng được sắp xếp theo từng lĩnh vực. Tất cả người học và giáo viên giảng dạy tiếng Hàn tại khắp nơi trên thế giới khi ghé thăm “Ngôi nhà thế giới” đều có thể dễ đang tìm thấy những thông tin cần thiết.   문화부가 새롭게 개편한 누리-세종학당에는 러시아어, 인도네시아어 등 2개 언어 누리집이 추가된다. 한국어, 영어, 중국어, 베트남어, 타이어, 몽골어 등 기존 6개의 다국어 누리집에 러시아어와 인도네시아어를 추가해 8개의 다국어 누리집으로 확대, 운영함으로써 더 많은 언어권의 사용자들이 한국어와 한국 문화를 접할 수 있게 된다.   Trang web của Trung tâm Sejong – nuri do Bộ Văn hóa vừa sửa lại  đã bổ sung thêm 2 thứ tiếng là: tiếng Nga, tiếng Indonesia. Ngoài 6 thứ tiếng đã có từ trước là: tiếng Hàn Quốc, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Mông Cổ, việc bổ sung thêm 2 tiếng nữa là tiếng Nga và tiếng Indonesia đã nâng tổng số tiếng của trang web này lên là 8 thứ tiếng.  Việc mở rộng nhiều ngôn ngữ như vậy giúp cho những người sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới có thể tiếp cận được với tiếng Hàn và văn hóa Hàn Quốc. 기존의 누리집이 단방향 정보 전달에 머무른 데 반해 새로운 누리-세종학당에서는 온라인 강좌 학습자 간, 학습자 교사 간 의견을 나누면서 함께 한국어와 한국문화를 공부할 수 있도록 쌍방향 정보 소통형 콘텐츠를 제공한다는 점에서 주목할 만하다.   Khác với “Ngôi nhà Thế giới” trước kia chỉ dừng lại ở việc chuyển tại thông tin một chiều, “Ngôi nhà Thế giới” bản mới của Trung tâm Seojong-nuri đáng chú ý ở điểm đem lại những nội dung thông tin hai chiều để những người học và dạy tiếng Hàn online có thể trao đổi ý kiến và cùng nhau học tiếng Hàn và tìm hiểu về văn hóa Hàn Quốc. 또한 디지털교육자료관은 한국어 교원들이 다양한 한국어 교육 자료를 기증하거나 내려 받을 수 있도록 설계되어 누리-세종학당이 제공하는 멀티미디어 자료에만 의존하던 교원들의 다양한 교육 자료의 갈증을 없애 줄 전망이다.   Ngoài ra, mục “Tài liệu giáo dục kỹ thuật số” được thiết kế để các giáo viên tiếng Hàn có thể tặng hoặc nhận các tài liệu giáo dục tiếng Hàn đa dạng. Trung tâm Sejong –nuri cũng dự kiến sẽ đáp ứng được nhu cầu về các tài liệu tiếng Hàn đa dạng của giáo viên tiếng Hàn. 새로운 누리-세종학당 웹사이트에서 한국어 학습자와 교원들이 간단한 검색으로 원하는 멀티미디어 교육 자료를 바로 구할 수 있도록 사용자별 맞춤형 정보 검색 시스템을 구축했다. 또한, 세계 곳곳에서 운영되고 있는 세종학당의 실시간 소식도 한눈에 볼 수 있다.   Website mới được sửa lại của Trung tâm Sejong –nuri cũng xây dựng hệ thống kiểm tra thông tin phù hợp với từng đối tượng sử dụng để học người học và giáo viên có thể tự tìm kiếm được những tài liệu đa dạng mà mình muốn. Ngoài ra, người học cũng có thể tìm thấy những thông tin của Trung tâm Sejong – nuri vào thời gian thực tại khắp nơi trên thế giới. 문화부는 35개국 75개소에서 운영되고 있는 세종학당에서 제공하는 오프라인 학습 외에도 온라인 상에서도 누리-세종학당을 통해 한국어 학습자와 교원이 한국어 및 한국 문화 교육 정보를 쉽게 구할 수 있도록 교육 현장에서 필요로 하는 알찬 자료를 꾸준히 누리집에 담을 계획이다.   Ngoài 75 cơ sở tại 35 quốc gia mà Trung tâm Sejong-  nuri  đang triển khai việc đào tạo tiếng Hàn  tại chỗ, Bộ Văn hóa còn có kế hoạch thông qua website mới được sửa lại của Trung tâm Sejong – nuri sẽ tiếp tục cung cấp thêm nhiều tài liệu bổ ích mà quốc gia có người học tiếng Hàn cần thiết  tại “Ngôi nhà Thế giới” để người học và giáo viên có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin về tiếng Hàn và văn hóa, giáo dục của Hàn Quốc.   Theo: Korea.net
  2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) - cơ quan phi lợi nhuận duy nhất giữ vai trò hỗ trợ Liên Hợp Quốc  sẽ tổ chức phiên họp chung về bảo tồn thiên nhiên thế giới – hội thảo về môi trường được tổ chức định kỳ vào tháng 4 hàng năm tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Jeju từ ngày 6~15/9/2012.   Phiên họp chung về bảo tồn thiên nhiên thế giới là hội thảo có uy tín nhất trong lĩnh vực môi trường được IUCN tổ chức lần đầu tiên vào năm 1948 và đã được diễn ra với nhiều chủ đề đa dạng về môi trường trong thời gian qua với tư cách là hội thảo quốc tế có quy mô lớn nhất. Kể từ sau phiên họp chung được tổ chức tại Montreal (Canada) năm 1996, phiên họp được đổi tên chính thức là: “Phiên họp chung về bảo tồn thiên nhiên thế giới”. Phiên họp chung lần thứ 5 diễn ra trong năm 2012 này là phiên họp đầu tiên trong lịch sử 60 năm được tổ chức ở đảo Jeju(Hàn Quốc) – quốc gia năm trong khu vực Đông Bắc Á. Hội thảo diễn ra trong vòng 10 ngày với sự tham gia của không chỉ các cơ quan Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các doanh nghiệp, học giả mà còn có sự tham gia của các cơ quan báo chí, truyền thông và các chuyên gia trong mọi lĩnh vực. Hội thảo là nơi để các cơ quan, đại diện tham gia thảo luận về những kế hoạch quan đến những vấn đề chính về môi trường đang ánh hưởng đến thế giới mà chúng ta đang sống ngày hôm nay đồng  thời tìm kiếm những giải pháp cho trái đất trong tương lai. Những nội dung chính sẽ được thảo luận tại phiên họp chung ở Jeju là: đánh giá về giá trị và bảo tồn sự đa dạng của các loại sinh vật, cùng chia sẻ những lợi ích từ nhiên nhiên, tìm giải pháp đối phó với những khủng hoảng của tự nhiên như: các vấn đề về biến đổi khí hậu và an ninh lương thực, kinh tế xanh… Đại diện tham gia sẽ cùng chia sẻ với các nước về những thành quả của các dự án liên quan đến môi trường và xây dựng nên mối quan hệ đối tác hỗ trợ , chuyển giao kinh nghiệm lẫn nhau nhằm bảo vệ môi trường. * Logo * Slogan chính thức của phiên họp chung Slogan chính thức của phiên họp chung là: “Nature +”. “Tự nhiên” mang ý nghĩa mở rộng những vấn đề đa dạng có mối liên quan mật thiết đến cuộc sống của chúng ta. “+” mang rất nhiều ý nghĩa, thể hiện phiên họp này sẽ đem lại cơ hội  thảo luận một cách tự do và đa dạng trong khuôn khổ về  “tự nhiên” liên quan đến 6 vấn đề trọng tâm: khẳng định (positive), hơn nữa (more), tốt hơn (better), giá trị gia tăng (added value)… * Thời gian: diễn ra trong 10 ngày từ 6~15/09/2012.  * Nội dung chi tiết:  - Lễ khai mạc: ngày 6/9/2012  - Diễn đàn bào tồn thiên nhiên thế giới: 7~10/9/2012  - Phiên họp chung của các thành viên: 8~15/9/2012  - Lễ bế mạc: 15/9/2012 * Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc tế Jeju * Website: http://wcc2012.or.kr/eng    Theo: Korea.net  
  3. 오바마 미 대통령이 23일 차기 세계은행 총재 후임으로 지명한 김용 미국 다트머스대 총장이 1일 오후 방한했다. Hiệu trưởng trường Đại học Dartmouth Mỹ - ông Kim Yong – người vừa được Tổng thống Mỹ Obama bổ nhiệm làm Chủ tịch Ngân hàng Thế giới vào nhiệm kỳ sau vào ngày 23/3 đã tới thăm Hàn Quốc ngày 1/4 vừa qua. 27일 에티오피아를 시작으로 중국, 일본, 한국, 인도, 브라질, 멕시코 등을 잇따라 방문해 각국 재무장관 등을 만나 세계은행의 정책방향 등에 대해 의견을 나누는 여정에 나선 김 총장은 2일 박재완 기획재정부 장관과 조찬 회동을 가진 뒤 청와대에서 이명박 대통령을 예방했다. Hiệu trưởng Kim đã có chuyến thăm tới một loạt các nước, bắt đầu là Ethiopia vào ngày 27/3 và các nước khác như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Braxin, Mexico… Tại mỗi nước, Hiệu trưởng Kim đều có các buổi gặp gỡ với Bộ trưởng Bộ Tài vụ các nước và trao đổi ý kiến về phương hướng, chính sách của Ngân hàng Thế giới.  Vào ngày 2/4 vừa qua, sau khi có dùng bữa điểm tâm nhẹ với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Tài chính Park Jae Wan, Hiệu trưởng Kim đã có buổi gặp gỡ với Tổng thống Lee Myung-bak tại Nhà Xanh. 이명박 대통령은 김용 후보를 접견한 자리에서 “김용 후보가 한국에서 태어났고 한국의 경제개발 과정을 지켜봤으며 이러한 한국과의 인연이 개도국의 경제발전을 이끄는 데 큰 도움이 될 것”이라며 적극 지지의사를 밝혔다.   Tại buổi tiếp kiến người kế nhiệm chức Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, Tổng thống Lee đã phát biểu rằng:” Chủ tịch tương lai Kim đã sinh ra tại Hàn Quốc, đã theo dõi quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc trong suốt thời gian qua. Những mối nhân duyên như vậy với Hàn Quốc sẽ giúp ích rất nhiều trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của những nước đang phát triển”. 이 대통령은 특히 “김 후보가 인류학과 의학을 전공하고 개도국에서 직접 개발 계획을 실행에 옮긴 경험이 있으며, 대학총장으로서의 조직관리 경력 등을 볼 때 세계은행 수장으로서 최적임”이라고 밝혔다.   Đặc biệt Tổng thống Lee còn phát biểu rằng: “ Chủ tịch tương lai Kim đã từng theo học chuyên ngành y học – khoa Nhân loại học và là người có rất nhiều kinh nghiệm trong việc trực tiếp triển khai các kế hoạch phát triển ở những đang phát triển. Bên cạnh đó, với tư cách là Hiệu trưởng trường đại học, Chủ tịch tương lai Kim cũng có rất nhiều kinh nghiệm quản lý tổ chức nên việc được bổ nhiệm là Chủ tịch Ngân hàng Thế giới là một điều rất hợp lý”. 이 자리에서 김용 후보는 한국의 지지에 감사를 표하고 “세계은행 총재가 되면 한국의 성장경험을 토대로 사람에 대한 투자가 개도국 개발의 핵심이라는 생각으로 일할 것”이라고 밝혔다.   Tại buổi tiếp kiến Tổng thổng, Chủ tịch Kim cũng bày tỏ sự cảm kích đối với sự ủng hộ của Hàn Quốc đồng thời phát biểu rằng: “ Nếu trở thành Chủ tịch của  Ngân hàng Thế giới, tôi dự dịnh sẽ đặt trọng tâm vào việc thu hút sự đầu tư  của mọi ngườivào những nước đang phát triển trên cơ sở nền tảng là những kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc trong quá khứ”. 김 총장은 앞서 29일 영국 파이낸셜타임스(FT)에 기고한 글에서 "나 자신의 인생과 일을 통해 인간에 투자하는 포괄적인 개발이 경제적, 도덕적으로 가장 중요한 것임을 알게 됐다"면서 '한국'을 언급했다.   Trước đó, trong bài phỏng vấn của Tạp chí Financial Times của Anh vào ngày 29/3, Hiệu trưởng Kim đã phát biểu rằng: “Thông qua cuộc sống và những việc làm của mình, tôi đã nhận ra điều quan trọng nhất là việc đầu tư phát triển phải dựa trên tính kinh tế và phải có đạo đức”. 그는 "나는 전쟁에서 겨우 벗어나 길을 닦기 시작하고 문맹률이 낮았던 한국에서 태어났다"면서 "세계 경제와의 결합이 어떻게 가난한 나라를 세계에서 가장 역동적이고 번영하는 국가 가운데 하나로 만들었는지 지켜봤다"고 말했다.   Hiệu trưởng Kim cũng cho biết: “Tôi đã sinh ra tại Hàn Quốc – đất nước đã từng phải bắt đầu con đường của mình khi bước qua cuộc chiến tranh và trình độ phát triển khi đó còn rất thấp. Tôi rất quan tâm đến việc làm thế nào có thể kết hợp với nền kinh tế thế giới để biến một đất nước vốn rất nghèo nàn có thể  ‘lội ngược dòng” và trở thành một trong những quốc gia phát triển nhất trên thế giới”. 그는 "경제성장이 보건, 교육, 공공에 대한 투자 재원을 만들어내는 데 필수적이라는 사실을 알게 됐다"고 강조했다. 그러면서 "세계은행이 모든 국가의 요구에 신속하고 효과적으로 대응하길 바란다"면서 "나는 의학, 사회과학 분야의 경험과 열린 마음으로 접근할 것"이라며 지지를 당부했다. Hiệu trưởng Kim cũng nhấn mạnh rằng: “Tôi cũng được biết một thực tế là sự phát triển của kinh tế rất cần thiết cho việc tạo nên nguồn tài nguyên đầu tư cho y tế, giáo dục và cộng đồng… Tôi hy vọng rằng Ngân hàng Thế giới có thể giải quyết được một cách nhanh chóng và hiệu quả những yêu cầu của tất cả các quốc gia.  Tôi sẽ tiếp cận với lĩnh vực y học, khoa học xã hội bằng một tấm lòng rộng mở”.   김총장은 2004년부터 2006년에 이르기까지 세계보건기구(WHO) 에이즈 국장으로 활동하며 결핵퇴치와 의료구조활동에도 앞장서오며 2006년에는 타임지가 선정한 세계에서 가장 영향력 있는 100인에 선정된 바 있다. Hiệu trưởng Kim đã từng làm việc ở Tổ chức Y tế thế giới (WTHO) từ năm 2004~2006  và đi đầu trong các hoạt động  của các tổ chức y tế về  việc phòng chống bệnh lao.  Trong năm 2006, Hiệu trưởng Kim cũng có mặt trong danh sách 100 người có sức ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới do tạp chí Time bầu chọn.   한편, 세계은행은 4월 20일 열릴 예정인 25개 이사국 회의에서 총재 선임건을 처리할 예정이다.   Bên cạnh đó, Ngân hàng Thế giới dự kiến sẽ tổ chức buổi Lễ ra mắt tân Chủ tịch tại cuộc họp của 25 nước thành viên vào ngày 20/4 tới đây.   Nguyên văn bài phát biểu của Hiệu trưởng Kim Yong có thể tham khảo tại link dưới đây Financial Times 에 실린 김용 총장의 기고문은 다음 링크에서 열람 가능하다: www.ft.com/cms/s/0/e2adc88c-7733-11e1-baf3-00144feab49a.html#axzz1qwqk3JET (tiếng Anh)   Theo: Korea.net  
  4. Một bài hát buồn về sự chia ly và mất mát trong tình yêu, Arirang là một biểu tượng quốc gia không chỉ của quá khứ xa xôi mà còn là lịch sử hiện đại đầy xáo động của Hàn Quốc. Bài hát này được coi là một biểu tượng cho sự đấu tranh giành độc lập chống lại Nhật Bản của Hàn Quốc và mối liên hệ của bài hát này vẫn còn lưu lại qua suốt những thập kỷ chia ly và nội chiến. Chính phủ Hàn Quốc dự định đăng ký bài hát này, thường được xem là quốc ca không chính thức của Hàn Quốc, vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi Vật thể Đại diện của Nhân loại được UNESCO công nhận. Vào ngày 23/6/2011, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khi đó công bố rằng chính phủ đang sưu tập một danh sách các bài hát Arirang khác nhau, bao gồm những bài hát từ CHDCND Triều Tiên, để trình lên UNESCO. Trước đây, vào năm 2009, chính phủ đã nộp cả bài hát Arirang Jeongseon, nhưng đã không thể được thông qua. Bài hát này có vô số sự biến tấu trên khắp cả nước. Cùng với Arirang Jeongseon của Jeongseon, Gangwon-do (tỉnh Gangwon), một số những bài hát hay nhất và được giữ gìn tốt nhất bao gồm Arirang Jindo từ hòn đảo Jindo ở Jeollanam-do (phía Nam tỉnh Jeolla), Arirang Miryang ở Gyeongsangnam-do (tỉnh Gyeongsangnam Nam) và Ariang Bonjo còn được gọi là Arirang Gyeonggi hay là Arirang Shin (Arirang Mới) từ Seoul. Tất cả đều có lời bài hát, điệp khúc, giai điệu.v.v.v độc đáo. Bảo tàng Dân gian Quốc gia Hàn Quốc cho biết “Arirang thể hiện tất cả niềm vui và nỗi buồn trong lịch sử và cuộc sống của người Hàn Quốc. Nó ăn sâu vào cảm xúc của người Hàn Quốc như một DNA văn hóa”. Bảo tàng Dân gian Quốc gia Hàn Quốc đã mở cửa một triển lãm đặc biệt riêng về Arirang hôm thứ 4, ngày 4/4, tại sân Cung Geyongbokgung ở trung tâm Seoul. Triển lãm dự kiến không chỉ nhằm thông báo tới khách tham quan về di sản giàu có của bài hát này mà còn để cùng suy ngẫm về ý nghĩa xâu xa của bài hát này đối với cuộc sống thường ngày của người dân Hàn Quốc. Cắt băng khai trương tại triển lãm Arirang ở Bảo tàng Dân Gian Quốc gia. Triển lãm, mở cửa miễn phí đón công chúng đến ngày 21/5, được chia thành 5 khu vực. Khu vực đầu tiên bao gồm một hành lang nhỏ cùng với những thông điệp chào đón khách thăm quan góp phần thể hiện ý nghĩa của Arirang, được viết bằng nhiều ngôn ngữ trên các bức tường. Khách thăm quan được hỏi tại sao họ nghĩ người Hàn Quốc hát Arirang trong cả lúc vui và buồn và Arirang Pass thực sự là gì. Khi đi qua hành lang này, khách thăm quan bước vào một phòng lớn giới thiệu về lịch sử các bản biến tấu địa phương khác nhau của bài hát này bên cạnh lời thuyết mình hiện đại. Một thông điệp trên tường trong phòng viết rằng “Ai đó nói rằng bài hát này bắt đầu cùng thời điểm với lịch sử Hàn Quốc trong khi một số khác lại tranh luận rằng bài hát này bắt đầu vào giai đoạn sau của Triều đại Joseon”. Bonjo Arirang được phát hiện mới đây vào thế kỷ 19 trong khi Jeongseon Arirang được xem là cổ nhất, có niên đại hơn 600 năm, nhưng nguồn gốc chính xác của Arirang vẫn chưa được biết rõ. “Sự bắt đầu của Arirang vẫn chưa rõ mặc dù có nhiều giả thuyết nhưng điều đó dường như không quan trọng. Sự thật là chúng ta vẫn đang hát những bài hát của quá khứ”. Có những máy nghe quanh triển lãm cũng như các những góc đa phương tiện mời khách tham quan ngồi và tìm hiểu về các phiên bản độc đáo của Arirang. Cũng có một bộ sưu tập ấn tượng về các bản thu âm, danh sách bài hát và lời bài hát, cho thấy bài hát này được lan truyền trộng rãi như thế nào trong xã hội Hàn Quốc. Từ những bài hát ru do những người mẹ hát cho con mình cho đến những bài hát nổi tiếng được các nhóm nhạc thu âm như Chị em nhà họ Kim, cho đến những hành khúc quân đội. Bản cải biên của bài hát “Hành khúc Arirang Mới” được chọn là hành khúc chính thức của Sư đoàn Bộ binh thứ 7 của Quân đội Mỹ trong thời gian phục vụ tại Chiến tranh Triều Tiên. Chị em nhà họ Kim, nhóm nhạc nổi tiếng tại Mỹ vào những năm 50 và 60 giới thiệu một lối diễn Arirang của riêng họ trong album đầu tay (trái). Bảo tàng trưng bày sách lời bài hát cổ với bản dịch Arirang mới đây (phải). Bài hát dân ca này của Hàn Quốc được biết đến trên khắp thế giới, được biểu diễn phù hợp với rất nhiều loại hình khác nhau từ dân ca, thính phòng cho đến rock và nhạc nhẹ đến cả nhạc mạnh và jazz. Arirang được biểu diễn bởi các nhóm khác nhau như nhóm nhạc nhẹ Trung Quốc Alilang bao gồm các thành viên Hàn – Trung, nhóm ska Nhật Bản Moody Rudy và Dàn nhạc Thính phòng New York, biểu diễn bài hát trong chuyến thăm tới Pyonggyang vào hôm 26/2/2008. Triển lãm bao gồm một khu vực dành riêng cho Arirang ở CHDCND Triều Tiên, đồng thời gợi cho khách thăm quan nhớ đến tầm quan trọng của bài hát này ở vĩ tuyến 38 phía bắc, và thể hiện ý nghĩa bi thuơng của bài hát nói về nỗi đau chia ly. Hàng năm, Pyeongyang tổ chức Liên hoan Arirang, hay Đại hội Quần chúng, một chương trình biểu diễn tập thể quy mô lớn với sự tham gia của hơn 100.000 nghệ sỹ được Sách Kỷ lục Thế giới công nhận là sự kiện lớn nhất thuộc loại hình này. Với múa, nhào lộn và nhạc sống, Liên hoan Arirang nổi tiếng là bức tranh khảm hoạt hình lớn do hơn 30.000 họcc sinh cầm những tấm biển lớn giới thiệu những ảnh điểm trong một hình ảnh lớn. Tên gọi của liên hoan là di sản của cả hai đất nước và chính phủ Hàn Quốc hy vọng sẽ cùng hợp tác với CHDCND Triều Tiên trong chiến lược chung để giành được sự công nhận của UNESCO đối với Arirang. Liên hoan Arirang ở Pyongyang vào năm 2010 sử dụng múa, nhạc sống, hiệu ứng và xếp hình do hơn 30.000 học sinh cầm những tấm biển màu tạo nên (Ảnh được sử dụng với sự cho phép của tác giả). Bảo tàng cũng trưng bày một dãy các sản phẩm đa dạng có liên quan hoặc mang tên Arirang, cho mọi sản phẩm từ văn phòng phẩm cho đến thuốc lá và thậm chí là phim người lớn, “Arirang”. Cũng có một bộ sưu tập văn học lấy cảm hứng và phân tích Arirang, sẵn có để cho khách tham quan đọc tại triển lãm. Bảo tàng cho biết “Arirang cũng là mùa xuân của sự sang tạo, là cảm hứng thực tế cho văn học và nghệ thuật. Văn học Hàn Quốc thường sử dụng chủ đề Arirang”. Hàng ngày vào lúc 1h chiều, bảo tàng tổ chức buổi biểu diễn Arirang trực tiếp. Bài hát có thể được hát với một dàn hợp xướng lớn hoặc solo nên quy mô của chương trình biểu diễn có thể thay đổi từng tuần. UNESCO sẽ công bố kết quả đăng ký thêm mới này của Hàn Quốc vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi Vật thể Đại diện của Nhân loại vào tháng 11 năm nay. Jon Dunbar Korea.net  
  5. 국립민속국악원은 5-16일 베트남 후에(Hue) 지역에서 열리는 국제전통예술축제에 참가한다고 3일 밝혔다.  Ngày 3/4 Trung tâm Nghệ thuật Múa Quốc gia Gugak Hàn Quốc cho biết; ngày 5-16/4 sẽ tham gia Festival Huế tại Việt Nam. 국립민속국악원은 6일 개막식을 시작으로 3회에 걸쳐 "천년의 소리, 천년의 몸짓(Millennium Sound, Millennium movement)" 이란 주제로 공연한다.   Trung tâm Nghệ thuật Múa Quốc gia Gugak Hàn Quốc sẽ có 3 buổi biểu diễn với chủ đề “Millennium Sound, Millennium movement”. Chương trình đầu tiên diễn ra vào ngày 6/3. 공연에는 한국적인 아름다움을 널리 알리기 위해 길놀이, 소고춤, 기악합주, 판소리, 부채춤, 장구춤 등을 선보인다.  Với mục đích quảng bá hơn nữa hình ảnh của đất nướcHàn Quốc, đoàn sẽ biểu diễn các tiết mục như: Gilnori, Sogochum, Hòa tấu nhạc cụ, Pansori, Buchaechum, Jangguchum 공연단은 베트남의 전통 민요를 연주해 양국의 우호관계를 돈독하게 할 예정이다.    Không chỉ vậy, Đoàn còn biểu diễn cả các làn điệu dân ca truyền thống của Việt Nam và hi vọng làm sâu sắc hơn nữa tình hữu nghị giữa hai nước. 한국-베트남 수교 20주년을 맞아 베트남 한인 밀집 거주지역인 다낭시(Danang)에서도 공연을 한다.   Ngoài ra, nhân kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt  Nam – Hàn Quốc, chương trình cũng được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng - khu vực có đông đảo người Hàn Quốc sinh sống. 국립민속국악원은 교민에게 우리 문화에 대한 자부심과 긍지를 안고 살아갈 수 있는 원동력을 제공하기 위해 공연을 준비했다.    Trung tâm Nghệ thuật Múa Quốc gia Gugak Hàn Quốc hi vọng chương trình này sẽ nâng cao lòng tự hào, sự yêu mến văn hóa Hàn Quốc và tiếp thêm sức mạnh cho các kiều bào Hàn Quốc tại Việt Nam. 후에 국제전통예술축제는 베트남에서 가장 권위 있는 문화축제로 2002년부터 국제 규모로 확대돼 열리고 있다. Festival Huế là lễ hội văn hóa tiêu biểu nhất tại Việt Nam và được mở rộng quy mô thành lễ hội quốc tế từ năm 2002. Theo yonhapnews.co.kr Ảnh sưu tầm